18 đời vua Hùng gồm những ai? Giỗ tổ Hùng Vương là giỗ vua nào?
18 đời vua Hùng gồm những ai? Giỗ tổ Hùng Vương là giỗ vua nào?

18 đời vua Hùng gồm những ai? Giỗ tổ Hùng Vương là giỗ vua nào?

Theo dõi Miti trên
Nhơn.content
Th 4 17/04/2024 19 phút đọc
Nội dung bài viết

Theo sử sách ghi lại, thời đại các vua Hùng là một khởi đầu ấn tượng, rực rỡ và nổi bật cho việc thành lập nước Việt Nam với tư cách là một quốc gia có chủ quyền. 18 đời Vua Hùng đã chứng kiến ​​sự ra đời và phát triển của nước Việt Nam và được ghi nhận là đã rèn giũa những đức tính dân tộc như ý thức cộng đồng, tương thân tương ái, lòng yêu nước và không chịu khuất phục trước áp bức. Giỗ tổ Hùng Vương là dịp để người Việt Nam ta nhớ đến và biết ơn nguồn cội, biết ơn những người đã dựng nước, mở mang bờ cõi. Vậy 18 vị vua Hùng Vương là ai, giỗ tổ Hùng Vương là giỗ của vị vua nào? Cùng Miti tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Lịch sử 18 đời vua Hùng

1. Kinh Dương Vương: 2879 - 2794 TCN

Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王) là một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử, tương truyền ông là Đức thủy tổ của người Việt, mở ra nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Theo Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm 2879 trước công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nên nhà nước Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼 tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong số 28 vì sao sáng trên bầu trời). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Các vua Hùng là hậu duệ huyết thống của Kinh Dương Vương.

Tại Lăng Kinh Dương Vương có ghi: Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khỏe phi thường. Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng 1 tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay) và được nhân dân kính cẩn lập miếu thờ.

2. Hùng Hiền Vương hay Lạc Long Quân: 2793 - 2525 TCN

Mặc dù trong số 18 đời vua Hùng, Kinh Dương Vương là vua đầu tiên của phương Nam, nhưng chính con của ông là Lạc Long Quân Hoặc húy Sùng Lãm mới là vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, là vị vua tu luyện đắc Đạo và vị Thần cổ xưa đầu tiên khai sinh ra dòng giống Bách Việt và định lãnh thổ cho quốc gia Văn Lang thời cổ đại.

Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân tên là Nguyễn Lâm, tên huý là Sùng Lãm, tự là Phúc Thọ, thụy là Hùng Hiền Vương, con trai của Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân lên nối ngôi 33 tuổi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương, trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương của quốc gia Văn Lang. Ông trị vì 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 TCN ) đến năm Bính Thìn (2525 TCN).

Nhân duyên trời định đã đưa đến cho ông một người vợ vốn gốc Tiên để khai mở ra dòng giống Bách Việt sau này. Người vợ này chính là Âu Cơ, tổ mẫu của dân tộc ta. Sau khi về làm vợ Lạc Long Quân, Âu Cơ đã sinh ra cho ông những người con trai một cách thần kỳ mà sự tích còn lưu truyền đến ngày nay.

Lạc Long Quân không những là một vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, Ngài còn là một vị thần bảo hộ cho dân tộc Việt Nam từ thời thượng cổ. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Các Thần tích mà Ngài vì dân trừ hại đến nay vẫn được ca tụng lưu truyền. Lạc Long Quân còn dạy cho dân chúng cách ăn ở sinh sống cùng các phong tục tập quán tốt đẹp.

3. Hùng Lân Vương: 2524 - 2253 TCN

Hùng Quốc Vương là vị vua Hùng thứ III, tên húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 TCN) lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 TCN ) đến 2253 TCN.

4. Hùng Hoa Vương 

Hùng Hoa Vương là vị vua Hùng thứ IV, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 TCN), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 TCN ) đến năm Mậu Thìn (1913 TCN ).

5. Hùng Hy Vương 

Hùng Hy Vương là vị vua Hùng thứ V trong 18 đời vua Hùng, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 TCN), lên ngôi khi năm 59 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 TCN) đến Mậu Tý (1713 TCN).

6. Hùng Hồn Vương 

Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 TCN), lên ngôi khi 29 tuổi, ở ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TCN).

Vào đời Vua Hùng Vương thứ 6 này, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào. Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành.”

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18. Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dày để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

7. Hùng Chiêu Vương

Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 TCN) là vị vua Hùng thứ VII. Hùng Chiêu Vương lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 TCN).

8. Hùng Vỹ Vương 

Hùng Vỹ Vương húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TCN).

9. Hùng Định Vương 

Hùng Định Vương húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 TCN), lên ngôi khi 45 tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 TCN.

10. Hùng Uy Vương

Hùng Uy Vương húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 TCN

11. Hùng Trinh Vương 

Hùng Trinh Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 TCN), lên ngôi khi 51 tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 TCN) đến năm Bính Tuất (1055 TCN).

12. Hùng Vũ Vương 

Hùng Vũ Vương húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 TCN), lên ngôi khi năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TCN).

13. Hùng Việt Vương 

Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 TCN), lên ngôi khi 23 tuổi, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 TCN) đến Đinh Mùi (854 TCN).

14. Hùng Anh Vương 

Hùng Anh Vương húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TCN) lên ngôi khi 42 tuổi, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 TCN.

15. Hùng Triệu Vương 

Hùng Triệu Vương húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 TCN) đến năm Canh Thân (661 TCN).

16. Hùng Tạo Vương 

Hùng Tạo Vương là Hùng Vương thứ XVI. Tên húy là Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TCN), ở ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TCN) đến năm Nhâm Thìn (569 TCN).

Trong thời kỳ này, các lãnh đạo địa phương đã nổi dậy chống lại vua Hùng. Giai đoạn kết thúc khi nghĩa quân đầu hàng do sự đàn áp của lực lượng Thạch Tướng. Khoảng một năm 600 trước công nguyên, phong cách luyện kim độc đáo của trống đồng Đông Sơn đã được phát minh trong thời kỳ vua Hùng Tạo Vương. Một khía cạnh quan trọng của văn hóa Việt Nam vào thế kỷ thứ sáu TCN là thủy lợi của các cánh đồng lúa thông qua một hệ thống kênh và đê phức tạp. Ruộng được gọi là ruộng Lạc.

17. Hùng Nghị Vương: 568 - 409 TCN

Hùng Nghị Vương húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 TCN) lên ngôi khi 9 tuổi, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 TCN) đến năm Nhâm Thân (409 TCN).

Hùng Nghị Vương là Hùng Vương thứ XVII trong 18 đời vua Hùng. Tương truyền, vua Hùng thứ XVII có một người con nuôi là Mai An Tiêm, ông tổ trồng dưa ở Việt Nam.

Truyền thuyết kể rằng vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý. Có thuyết lại nói rằng Mai An Tiêm là nô bộc, sau được lấy con gái nuôi của Hùng Vương là nàng Ba. An Tiêm thường nói: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" nên bị các quan tấu lên vua. Vua nổi giận bèn đày gia đình An Tiêm ra đảo hoang.

Sau một thời gian vật lộn với cuộc sống hoang dã, An Tiêm phát hiện ra hạt của loài trái mà chim chóc thích ăn. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống. Sau đó hạt ra cây, cây ra quả, gia đình An Tiêm cứ trồng dưa thêm mãi. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh.

Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón.

18. Hùng Duệ Vương: 408 - 258 TCN

Hùng Duệ Vương sinh năm Canh Thân (421 TCN), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN).

Hùng Duệ Vương là Hùng Vương thứ XVIII (~334 - 258 TCN). Ông là một vị vua truyền thuyết của nước Văn Lang trong lịch sử Việt Nam và là vị Hùng Vương cuối cùng của thời đại vua Hùng. Tương truyền Hùng Vương thứ XVIII có hai con rể là Chử Đồng Tử và Sơn Tinh.

Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ XVIII có ba người con gái là Mỵ nương Tiên Dung, Mỵ nương Ngọc Hoa và Mỵ nương Ngọc Nương.

Mỵ nương cả là Tiên Dung đến tuổi cập kê không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng Chử Xá, nơi có chàng trai Chử Đồng Tử câu cá ngoài bãi. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.

Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Vợ chồng Chử Đồng Tử mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Chử Đồng Tử trong một lần đi buôn bán xa gặp một đạo sĩ tên Phật Quang, ở lại học phép thuật. Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Chử Đồng Tử - Tiên Dung bèn bỏ việc buôn bán, chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng. Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn, người dân gọi là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm).

Mỵ nương thứ hai là Ngọc Hoa khi đến tuổi cập kê, vua Hùng bèn mở hội kén rể. Có hai vị thần là Sơn Tinh và Thủy Tinh đến kén rể, đều mang trong mình sức mạnh phi thường. Vua Hùng rất khó xử về việc nên gả con gái cho người nào, nên ông đã ra quyết định ai dâng những lễ vật tới sớm nhất thì sẽ được gả Mị Nương. Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. 

Vì dưới biển nên Thủy Tinh có ít sản vật như nhà vua nói trên. Chỉ có Sơn Tinh là có thể tìm ra những sản vật nộp nhanh cho nhà vua. Khi Sơn Tinh đã trở thành con rể vua Hùng thì Thủy Tinh đùng đùng nổi giận, bèn sai những quân lính cùng mình đi đánh Sơn Tinh. Một cuộc chiến lớn đã xảy ra giữa hai người.Nhưng Thủy Tinh không thể đánh lại được Sơn Tinh đành rút quân về. Từ đó, Thủy Tinh và Sơn Tinh thường xuyên đánh nhau mỗi năm, gây ngập lụt vùng dân sinh sống. Nhưng lần nào Thủy Tinh cũng thua, đành rút quân về.

Giỗ Tổ Hùng Vương là giỗ vua nào?

Theo dòng thời gian của các truyền thuyết và huyền thoại, 18 đời vua Hùng đã trị vì hơn 2.600 năm. Nếu chia trung bình, tuổi thọ của mỗi vị vua kéo dài khoảng 150 năm. Lý giải điều này, một số học giả cho rằng thực chất 18 vua Hùng không phải là 18 cá nhân cụ thể mà là 18 chi, mỗi chi có nhiều vua lần lượt trị vì và có chung vương hiệu. Ngay cả con số 18 cũng chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, ​​quy ước cho thấy nhà Hùng đã trải qua nhiều đời, vì 18 là bội số của 9 - một con số thiêng liêng đối với người Việt.

Vậy nhiều vua Hùng như thế mà chỉ có một ngày Giỗ Tổ Hùng Vương thì đây là ngày giỗ của vị vua nào?

Truyền thuyết kể rằng Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân sau đó kết duyên cùng Âu Cơ sinh ra Hùng Vương. Từ đây ta có thể thấy Hùng Vương là cháu đích tôn của Kinh Dương Vương, là niên hiệu được dùng cho hàng chục triều vua tiếp sau đó. Như vậy, giỗ tổ Hùng Vương ở đây phải là giỗ Tổ Kinh Dương Vương, để tưởng nhớ vị tổ phụ đã khai sinh ra đất nước.

Có một số tài liệu lịch sử ghi lại, ngày giỗ tổ đã có từ cách đây 2.000 năm. Dưới thời Thục Phán An Dương Vương, cột đá thề đã được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh có đề: "Nguyện có đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam được trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương, xin đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng và gìn giữ giang sơn mà Hùng Vương trao lại; nếu thất hẹn, sai thề sẽ bị gió giăng, búa dập".

Các đời vua khác sau này cũng luôn ghi nhớ, khẳng định vai trò các vua Hùng trong việc xây dựng giang sơn. Chính vì thế mà hàng năm, người Việt dành một ngày để tưởng nhớ những người đã xác lập và xây dựng nên đất nước - các vua Hùng nói chung.

Trên đây là những thông tin xoay quanh 18 vị vua Hùng và đền thờ vua Hùng Vương mà Miti đã tổng hợp được. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương không chỉ là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những bậc tiền nhân đã có công lao to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước, mà còn là dịp để mỗi người dân Việt Nam thể hiện lòng tự hào dân tộc và sự kết nối với cội nguồn. Kính chúc mọi người có một kỳ nghỉ lễ vui vẻ, an toàn và hạnh phúc!

 

 

Viết bình luận của bạn
Vì sao bố mẹ nhất định phải sử dụng balo, cặp chống gù cho bé tiểu học?

Vì sao bố mẹ nhất định phải sử dụng balo, cặp chống gù cho bé tiểu học?

Th 7 10/08/2024 6 phút đọc

Ngày nay, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi tiểu học mắc bệnh gù lưng đang gia tăng. Để giảm thiểu tình trạng này, balo cặp... Đọc tiếp

Miti Ra Mắt Nhiều Dòng Sản Phẩm Cặp Balo Mới Cho Mùa Tựu Trường 2024

Miti Ra Mắt Nhiều Dòng Sản Phẩm Cặp Balo Mới Cho Mùa Tựu Trường 2024

Th 4 10/07/2024 5 phút đọc

Chỉ còn hơn một tháng nữa, năm học 2024 – 2025 sẽ bắt đầu, và thị trường balo cặp sách cho học sinh đã trở nên... Đọc tiếp

Balo Cặp Chống Gù Miti Mua Ở Đâu? Giá Bao Nhiêu?

Balo Cặp Chống Gù Miti Mua Ở Đâu? Giá Bao Nhiêu?

Th 4 19/06/2024 9 phút đọc

Balo cặp chống gù đang ngày càng trở nên phổ biến và được ưa chuộng trên thị trường. Tại Miti, dòng sản phẩm balo, cặp chống... Đọc tiếp

7 Lưu Ý Quan Trọng Khi Mua Cặp, Balo Cho Con Vào Lớp 1

7 Lưu Ý Quan Trọng Khi Mua Cặp, Balo Cho Con Vào Lớp 1

Th 6 14/06/2024 5 phút đọc

Khi bé bắt đầu vào lớp 1, bố mẹ phải chuẩn bị rất nhiều thứ, từ quần áo, sách vở đến bàn ghế. Trong đó, balo... Đọc tiếp

Nội dung bài viết